
Thời gian đã khá lâu để có thể viết về người bạn mà trong thời gian đi học ít khi tiếp xúc, vì học khác ban, vì không hợp tính cách… nên trong trí nhớ về Lâm Thành Nghiêm viết ra đây cũng không chắc là đúng lắm.
Lâm Thành Nghiêm là một người thâm trầm, ít nói và có khuynh hướng sống với nội tâm, có vẻ bất mãn với cái gì đó…? Tôi không rõ Nghiêm có phải là đệ tử của thần Lưu Linh hay không? Nhưng trong thời gian học, anh có biệt danh là “Say Con”, Trần Tấn Miêng, người bạn thân cùng lớp, cùng phòng trong lưu xá C của anh thì có biệt danh là “Say Cha”. Theo các bạn kể lại hồi học đệ tam, hai chàng này trong một lần dẫn nhau đi nhậu ngoài phố Bảo Lộc, không biết tiệm nào, có thể đã ghé để thưởng thức các món cầy tơ của tiệm Ngọc Loan, khi trở về thì đã ở trong tình trạng không được tỉnh táo cho lắm. Miêng nằm tầng trên, miệng luôn nói những điều như dạy bảo, Nghiêm nằm tầng dưới lúc đó không biết có nghe hay không? Nhưng miệng luôn trả lời “ờ…ờ..” các bạn thấy hình ảnh đó như là hình ảnh một người cha đang dạy con, nên biệt danh trên đã hình thành trong hoàn cảnh như vậy.
Có một lần thấy Nghiêm đi cà nhắc tới lớp hơn một tuần lễ, hỏi các bạn thì được biết anh bị ngựa đá, may mà nó đá thấp trúng bắp đùi, đá cao chút nữa không biết hậu quả sẽ ra sao?
Mà bạn nào đó cũng ác thiệt, Nghiêm đâu rành về súc vật nhiều, lại đi chỉ anh ta đứng sau con ngựa nhổ một sợi lông đuôi về làm thuốc…?? Năm 2006, tôi có dịp về thăm lại Viêt Nam, trong chuyến xuống miền tây thăm các bạn, trên đường đi có ghé lại Cai Lậy để thăm Quách Văn Hai và Lâm Thành Nghiêm, nhưng hôm đó Nghiêm không có nhà nên đành phải từ giã Cai Lậy để đi Vĩnh Long, Cần Thơ và Trà Vinh cho kịp chương trình chuyến đi.
Có một điều nữa nãy giờ chưa nói đến, đó là Nghiêm có năng khiếu viết văn, làm thơ từ hồi mới tập tễnh biết yêu… Trang nhà giới thiệu đến các anh, chị các bài viết của anh Nghiêm sẽ được lần lượt đăng lên trang nhà. Cuối cùng xin có vài lời riêng với Nghiêm, những dòng viết trên về bạn ở phần trên nếu không đúng sự thật thì xin bạn cũng niệm tình tha thứ cho! Bữa nào tui zìa, tui sẽ chỉ cái thằng học cùng lớp với mình, nó nói với tui như zậy đó. (Trang Nhà, Từ Văn Trường)
Họp Bạn
Chuông điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng nói rất xa lạ: “Nghiêm hả? Hồng Phước Tài đây. Còn nhớ không?” Tôi kêu ồ! Ngỡ ngàng. Từ ký ức sâu thẳm, một cái tên và một khuôn mặt quá khứ hiện về. Tài cho biết mấy chục năm rồi sống định cư tại Mỹ, mới về nước và muốn tổ chức cuộc họp mặt bạn bè cũ ngày xưa, mời tôi lên Sài Gòn tham dự. Trong nỗi xúc động, tồi ừ ừ hứa hẹn sẽ đi.
Gác máy xuống, hình ảnh người bạn xưa rõ nét hơn. Tài dáng người cao, da ngăm, tính trầm tĩnh, có nụ cười sáng rỡ. Ngày ấy, nơi trường NLS Bảo Lộc, tôi với Tài học cùng khóa, ở cùng lưu xá C, nhưng khác ban, khác phòng nên chẳng thân lắm, sau về Sài Gòn càng ít gặp. Rồi thời cuộc biến đổi, mỗi người một nơi. Thắm thoát mà đã hơn 40 năm rồi, biết bao vật đổi sao dời, biết bao phận số nổi chìm. Đời người sắp cạn…
Mấy ngày sau cái ý muốn lên tham dự tan mòn, nhạt hứng. Ấn tượng về những cuộc họp bạn, họp nhóm nhạt nhẽo. Chỉ là một tổ chức ăn nhậu với sự níu kéo ngượng gạo cái quá vãng đã qua, cố moi móc kỉ niệm tìm lấy thân tình mà chưa hẳn ngày xưa đã có! Nhớ lần tham dự họp bạn đầu tiên sau 75 một số năm. Đó là nhóm thời niên thiếu (Từ đệ thất đến đệ tứ) cùng quê hương Cai Lậy. Ba lớp đệ thất ngày ấy có gần 180 người. Nay chỉ còn hơn 20 người đến dự. Chiến tranh và cuộc đời nghiệt ngã để còn đọng lại trên những khuôn mặt lạ lẫm hôm nay! Hồi tưởng điểm danh: đứa chết trận bên này, bên kia (cùng chết vì bom đạn mà danh gọi cho cái chết lại khác xa), đứa bỏ xứ ra đi, đứa không còn biết tin liên lạc, đứa không muốn đến và nhiều đứa không thể hình dung nhớ lại…
Vồn vã ôm nhau, tía lia thăm hỏi. Anh trưởng công an huyện cầm tay anh cảnh sát. Anh chủ tịch siết tay anh đại úy Cộng Hòa. Bề ngoài thắm thiết nhưng trong lòng còn vướng víu e dè. Thậm chí anh có chức quyền ngần ngại chụp chung hình với anh sĩ quan cũ. Học chung cùng lớp, tròm trèm cách nhau độ 3 tuổi đời, nhưng có kẻ tự cho mình huynh trưởng, là xúc phạm khi bạn gọi mầy tao. Lại bộ mặt kẻ dựa hơi, cố bắt chuyện làm thân với người đang quyền thế. Sau màn tâm sự xã giao là cuộc ăn nhậu ồn ào. Mọi người tranh nói, tranh với rượu, phát ngôn loạn xị… Cuối cùng ngả nghiêng tan cuộc! Những ngày sau có gặp nhau trên đường cũng chỉ cái gật đầu đãi buôi hời hợt. Thế đó! Chẳng có ý nghĩa thân tình gì, nên những lần mời họp về sau, tôi đều từ chối.
Hai cuộc điện thoại của Nê và Thuyết, (cùng khóa với tôi và Tài- thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp nhau) gọi đến nài tôi cố gắng thu xếp để đi. Các bạn cho biết có đứa tận miền Trung, vùng cao nguyên, cả miền Tây xa tít cũng về dự. Tài hỗ trợ chi phí đi lại cho những bạn còn khó khăn và Thuyết lo chỗ ăn nghỉ cho người ở xa về. Tôi nghĩ mình không nên phụ tấm lòng nhiệt tình, tha thiết như vậy và cũng nhận ra tình bạn Nông Lâm Súc Blao khác hẳn nhóm học chung cấp hai. Thuở ấy, chúng tôi đã qua thời niên thiếu, bước vào tuổi mộng mơ nhiều ước vọng, cái tuổi đẹp nhất đời người. Khóa chúng tôi cả 100 người chia làm ba ban: Canh nông, Mục súc, Thủy lâm. Tất cả xa nhà, ở khắp các vùng của mọi miền đất nước tụ lại. Rau muống, ớt và giá sống cùng sống chung trong lưu xá trường, gắn bó sinh hoạt, học hành với nhau. Và cái khung cảnh núi rừng thơ mộng, không khí lành lạnh sáng chiều đọng nhiều cảm xúc để cứ nhớ nhung lưu luyến.
Vậy là sáng này 5/1/2008, tôi đi sớm ghé nhà Phạm Thuyết, gặp Lai Minh ở Trà Vinh và Lô, Ngữ từ Đà Nẵng đến từ hôm qua. Nguyễn Đăng Ngữ phải xưng tên mà phải lúc lâu tôi mới nhận ra. Lần lượt Thức, rồi Cảnh, Sơn ghé. Chúng tôi lên xe tới nhà Trần Văn Tám ở quận 7, nơi tổ chức họp mặt. “Tám kinh tế” là một doanh nhân thành đạt, cơ ngơi rải nhiều nơi. Tôi có viết một bài báo ngắn ca ngợi anh trên báo Thế Giới. Tôi mong những điều mình viết đúng là sự thật. Giây phút gặp nhau rất cảm động. Vài khuôn mặt hầu như quên hẳn. Cũng chỉ có 25 người. Hơn 40 năm rồi, cụm bèo sóng xô tan dạt có thể nào tựu lại đủ đầy. Cuộc đời dâu bể, mất, thành, bại. Âu cũng phận người! Một nét chung là nếp thời gian cày lên da mặt đường rạch nhăn nheo, phủ mái đầu phất phơ bạc trắng. Hàng sáu hết rồi, nhiều người lên đến chức ông.
Biết bao kỷ niệm được ôn nhắc lại. Những đêm “etude” trên giảng đường. Giờ Nông Ba Trực hí hửng chờ đợi câu: “Hôm nay trời lạnh, ba cho các con nghỉ sớm”. Buổi nông trại mang giày “bốt” kéo lê xà-bất trên lộ nhựa, ồn ào như đám giặc chồm. Vào vườn thu hoạch cà phê, chợt nghe ai thốt lên “Cà phê đỏ, cánh tay xanh” câu thấm đậm ước vọng tương lai. Trưa chiều lên câu lạc bộ gõ mâm, gõ bát chọc phá bác lao công tội nghiệp.
Câu chuyện thế nào rồi cũng xoay về những mối tình học trò thơ mộng ngày ấy. Chiều cao nguyên sương mù trắng ngập không gian, lòng bâng khuâng mơ tưởng áo đỏ áo xanh thấp thoáng xuất hiện từ “Chiến khu D”. Trên “đại lộ Hoàng Hoa”, dưới hàng cây Đỗ Mai trắng xóa, từng đôi từng cặp tay nắm tay thả hồn mơ mộng. Bao tâm tình còn điều gì đọng lại với cỏ cây, mây trời nơi ấy! Mà “Mây trời theo gió thoảng bay, nên duyên phận ai nào định được?” Thôi! “dù rằn, dù sọc” cũng có một quãng đời quá đẹp.
Tôi không có hình bóng người con gái nào đọng giữ trong tim ở khung trời ấy. Nhưng muốn nhắc lại những cuộc tình của bạn bè. Có những đôi lộ diện công khai: Thuyết – Trợ, Cảnh – Cần, Thuận – Ngò, Hồng – Hạnh... Có những tình đơn phương lặng lẽ âm thầm. Anh chàng Bửu Linh yêu mà không dám tỏ, mua một bản nhạc, vẽ hình trái tim với mũi tên xuyên qua rỉ máu, lén lút gửi cho Trần Thị Nguyện. Bây giờ trên đất Mỹ anh có còn nhớ con tim rỉ máu trên giấy đó không? Nguyện giờ đây hẩm hiu số phận, chồng chết bệnh, hiện sống cô đơn vò võ một mình. Một Đỗ Đăng Tề mơ mộng văn thơ thầm nhớ Hoàng Thị Bích Liên, da đen giòn, giọng nói trọ trẹ khó nghe. Lại có cuộc tình nhiều sóng gió (Tôi xin lỗi nhắc lại) Phan Thị Thu Hà là mẫu người dễ gây thiện cảm. Chị có dáng dấp hơi thô, nhưng khuôn mặt rất đoan trang phúc hậu.
Đôi mắt to, giọng nói từ tốn nhỏ nhẹ. Chị đã làm điên đảo một con tim, phải dùng “Optalidon” mà “giải cảm”. Bao nhiêu mối tình ấy chẳng đôi nào thành tựu. Có phải “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”. Hay như Tề viết: “Điếu thuốc búng vào không gian vẽ thành vệt cong. Tình yêu đẹp không đi theo đường thẳng”. Hay vì vùng trời cao nguyên lộng gió, mà hạnh phúc mong manh như sợi mây trời. Chỉ có cặp Hồ Thành Huân – Phan Thị Đức là bén duyên, nhưng mãi về sau khi cả hai đã tốt nghiệp…
Trời đã về khuya, không gian lành lạnh, có phải khí lạnh của Blao, của vùng trời cao nguyên quá khứ dội về. Đêm âm, ngày dương. Tôi không muốn nhắc đến nhưng người bạn cùng khóa đã mất nhưng trong im lặng nửa khuya vẫn loáng thoáng bóng hình. Qua thông tin các bạn trong buổi họp mặt, cũng nhiêu đó: Hồng (TL), Quế, Ánh, Bưu, Biên, Hoàng, Tháo, Trung Bình, Tú… Rồi ngày nào trong danh sách ấy sẽ thêm tôi, thêm bạn. Tôi cũng nhớ đến những người bạn bỏ quê hương đang ở xứ người, không ngờ cũng nhiều thế: Kí, Tài, Oanh, Thừa, Linh, Trường, Hoa, Tuấn, Giang, Sắt, Tâm, Vân, Huân, Đức, Văn Xua… Ra đi dù bởi hoàn cảnh lý do nào cũng ít nhiều mang nỗi hụt hẫng trong lòng. Tôi thấy tâm trạng đó qua những bài viết của các bạn ở Mỹ trong đặc san “Trường xưa bạn cũ” ấn hành năm 2007.
Tôi giờ đây trong tuổi xế chiều, quá khứ cứ hiện về đeo đẳng nhớ nhung. Đúng là trẻ sống tương lai, già sống quá khứ. Nhưng nếu không có quá khứ thì sẽ sống với gì? Thế nên phải cảm ơn quá khứ, cám ơn ngôi trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc ấy. Nó gợi lại cho tôi bao kỷ niệm, cho tôi tình bạn thân thương. Nhắc đến bạn bè thì tình cờ nhìn lên tờ lịch ngày vừa gỡ, đọc thấy câu “Hãy chậm rãi trong việc chọn bạn, và càng chậm rãi hơn trong việc thay bạn – Franklin”
Đã hơn 40 năm rồi, thời gian quá đủ chậm rãi để tôi có ba người bạn chân tình gắn bó đến hôm nay: Trần Tấn Miêng, Trần Văn Hồng, Phạm Văn Nê.
Lâm Thành Nghiêm
Cai Lậy, tháng 02-2008