2. Lưu vực và ảnh hưởng rừng trên  lưu vực
 
Lưu vực sông là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nưóc nuôi dưỡng. Các dòng sông miền Trung có lưu vực nhỏ, chỉ trừ sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn và sông Ba. Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán.
 
Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối Rừng bảo vệ đất trên các triền lưu vực, giúp chống  xói mòn. Những lưu vực có rừng che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng điều tiết to lớn như vậy của rừng  nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn đến những kết qủa tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hạn tiếp diễn, xói mòn triền dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ.
 
Để dễ bề so sánh, sông Hồng dài 1126 km và có lưu vực toàn thể là 168 700 km2 trong đó chiều dài chảy trong nước là 556 km và lưu vực trong nước là 86 500 km2; sông Mekong có lưu vực toàn thể rất rộng: 795 000km2, trong đó chỉ có 71 000km2 là nằm trong nước.
 
3. Công dụng của các dòng sông
 
Trong các tài nguyên thiên nhiên, sông ngòi là một tài nguyên vô giá vì đảm nhận nhiều chức năng, cung cấp cho con người những dịch vụ tối cần cho cuộc sống.
Sông ngòi giữ nhiều chức năng quan trọng như:
 
. cung cấp nước sinh hoạt
. nước dùng trong các kỹ nghệ: mía đường, xi măng, giấy
. đem từng lớp lớp phù sa về giúp cho nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi
. nuôi trồng thủy sản ở mọi môi trường: thủy sản nước ngọt,  thủy sản nước lợ và nước mặn
. vận tải ghe thuyền chuyên chở phẩm vật từ miền xuôi lên miền ngược và đem sản phẩm miền núi xuống đồng bằng:
 
Ai về nhắn với họ nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên   
        
. hồ chứa nước tại các vùng  cao vừa sản xuất điện năng, vừa công dụng tưới nước và điều hoà dòng chảy.
 
4. Sông nước trong văn học dân gian
 
Sông ngòi luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của Lý Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh đều lấy sông làm nguồn cảm hứng. Riêng văn học dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hoá bằng ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều loại hò ra đời với nội dung rất phong phú,  phản ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v. Cùng với mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm truờng. Văn học dân gian được  phong phú thêm với những hò Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v..
 
Dòng sông ở Huế với  nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô hậy, đẩy nốc là những thể hò dân gian trên sông nước. Tiếng hò của mối tình ngang trái:
 
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi!
 
Câu hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:
 
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Tình yêu chân thật, tình yêu không son phấn là những đề tài trong các câu hò dân gian:
Thiên sanh nhân, hà nhân vô lộc
Địa sanh thảo, hà thảo vô căn
Một mình em ngồi dựa lòng thuyền, dưới nưóc trên trăng
Biết cùng ai trao duyên gửi phận, cho được bằng thế gian
 
Hò khoan có cả hò trên vạn, hò dưới nước. Hò khoan cũng được gọi với nhiều tên như hò đối đáp, hò chào mừng. Nhiều loại hò có tính cách chơi chữ dân gian và lối chơi chữ của nhà nho rất thông dụng:
 
Cá có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết có không mà công khó anh ơi..
 
Hoặc:
 
Gái Xuân em đi chợ Hạ
Mua con cá Thu về chợ hãy đang Đông
Ai nói với anh em đã có chồng
Tức mình em đổ cá xuống sông em về
 
Hoặc:
 
Người Kim mã cưõi con Ngựa vàng,
Đất Phù Long rồng nổi, thời chàng đói chi
 
Người con trai cũng đối lại:
 
Người Thanh Thủy gặp khách Nước Trong,
Hoành Sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa ?
 
Hò có nhiều loại tùy động tác như hò rời bến, hò đò xuôi, hò mắc cạn v.v.Nhạc điệu tùy lúc. Hò đò xuôi khi  thuận buồm xuôi gió với nhạc điệu dài đều; hò mắc cạn thì khi dứt một câu hò thì trai đò phải đồng lên tiếng ‘vác’ đồng thời đem hết sức  vác thuyền và cứ dứt một câu hò, thuyền nhích được một đoạn
Những câu hò, câu hát cũng dùng sông để ví von, so sánh:
 
-Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển, anh mới đành bỏ em.
-Cây đa cũ, bến dò xưa,
Người thương có nghĩa, nắng mưa ta vẫn chờ
-Nào khi mô, em nói với anh :
Sông cạn, mà tình không cạn,
Vàng mòn, mà nghĩa chẳng mòn
Nay chừ nước lại xa non,
Đêm năm canh tơ tưởng, héo hon ruột tằm
-Muời hai bến nước là duyên
Em cũng muốn bến hiền thuyền đậu
Nhưng em trách cho hai bên phụ mẫu
Làm cho hai đứa không nên thất nên gia
Xa cách này bởi tại mẹ cha
Làm cho nên nỗi bướm hoa lìa cành
 
5. Vài đại lượng cần biết trong thủy lợi
 
Tài nguyên nước bao gồm cả nước mặt do mưa rơi xuống sông, suối, ao hồ và nước ngầm.  Nước ngầm cũng phụ thuộc vào lượng nước mưa rơi và tính chất thấm nước của đất đá.
 
Thủy lợi là khoa học tổng hợp nhằm đánh giá, khai thác sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước và bao gồm đánh giá và quy hoạch nguồn nước; khảo sát và thiết kế, xây dựng công trình; quản lý lưu vực; chỉnh trị sông, bờ biển.
 
Thủy văn (hydrologie ) là lĩnh vực nghiên cứu khoa học về nước thông qua quan trắc, phân tích và công thức hoá. Cũng là khoa học ứng dụng nhằm điều khiển và sử dụng nước. Chế độ thủy văn  dao động theo mùa về mực nước, về dòng chảy, về thành phần và nồng độ các chất hoà tan, sự thay đổi lòng sông.
 
Bốc thoát hơi nước là lượng nước bốc hơi từ mặt đất và thoát hơi từ câỵ Do giá trị thực tế của lượng hơi nước bốc ra từ đất và từ cây rất khác nhau, tùy theo tính chất đất, hàm lượng nước, thảm cây che phủ đất nên các nhà khoa học đề nghị một lượng bốc thoát hơi nước tiềm tàng (évapotranspiration potentielle) để dễ so sánh. Bốc thoát hơi nước tiềm tàng là lượng nước tối đa thoát ra từ  một thảm thực vật thấp và dày đặc đồng đều không bị hạn chế và bốc hơi từ đất lên, khi lượng nước cung cấp hoàn toàn bảo đảm trong những điều kiện khí hậu thổ nhưỡng nhất định.
 
Lưu vực sông (bassin versant; watershed) là  vùng lãnh thổ mà sông nhận được nước nuôi dưỡng. Có vài sông lưu vực lớn ở Viet Nam như sông Mekong, sông Hồng v.v. Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán.. Ví dụ: sông Đà có diện tích lưu vực là 52 900 km2, nhưng sông Đà ở Hoà Bình thì lưu vực là 51 800 km2.
 
Đoạt giang (river piracy). Đầu nguồn một dòng sông có thể do xói mòn lùi ngược và đoạt  nước thượng nguồn của một dòng sông thuộc lưu vực khác. Một vài sông miền Trung đã do xói mòn vào đường phân nước nên đã ăn vào phần thượng nguồn dòng sông lưu vực bên Lào.
 
Lưu lượng dòng sông
 
Lưu lượng nước là lượng nước chảy qua một mặt cắt ngang của lòng dẫn hoặc ống dẫn trong một đơn vị thời gian một giây. Đơn vị tính thường là m3/sec hay lit/sec.
Lưu lượng biến thiên theo thời gian:
 
Mùa lũ muộn dần từ Thanh Hoá đến Phan Thiết.
 
Mùa lũ ở Sông Chu : tháng 6- 10; sông Cả: tháng 8 -11; sông Gianh : tháng 9- 11. Từ Thừa Thiên đến Khánh Hoà: từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Từ Phan Rang đến Hàm Tân (Bình Tuy/Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện tháng 7- 12
 
Lưu lượng  lớn nhất của con lũ phụ thuộc chủ yếu vào cường độ, thời gian mưa và đặc tính lưu vực.
 
Mùa cạn là lúc lưu lượng dòng chảy thấp, giảm đến đáng kể. Nhiều dòng sông nhỏ có thể lội qua được. Sông Chu có mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5; sông Cả từ tháng 12 đến tháng 7; sông Gianh từ tháng 12 đến tháng 8. Từ Huế vào, mùa cạn từ tháng 2 đến tháng 8.
 
Nhiều tỉnh miền bắc Trung Việt như Thanh, Nghệ, Tỉnh, Bình, Trị bị thêm gió Lào nóng thổi từng cơn ác liệt vì hiện tượng foehn, sự bốc thoát hơi của đất và của cây rất mạnh; có khi hạn hán kéo dài không trồng hoa màu được ; nhiều hồ thủy điện bị khô nước.
 
Mật độ lưới sông là tỉ số giữa tổng số độ dài của tất cả sông suối trong hệ thống sông trên diện tích lưu vực. Trong khi miền Châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, kinh rạch sông ngòi chằng chịt, mật độ lưới sông rất dày (2 -4 km/km2) thì miền Trung, mật độ lưới sông thấp hơn (1.5 - 2 km/km2). Riêng các vùng có đá vôi như  Phong Nha, Kẻ Bàng ở Quảng Bình thì mật độ rất thưa (0.3- 0.5 km /km2) vì đá vôi dễ thấm nưóc. Mật độ lưới sông vùng Phan Rang, Phan Thiết cũng thưa thớt vì lưu vực mưa ít và bốc hơi nhiều.
 
Hệ số dòng chảy là tỉ số giữa lớp dòng chảy (mm) và lớp nước mưa rơi trên lưu vực (mm) tạo nên lượng dòng chảy đó.
 
Hệ số sử dụng nước là tỉ số giữa lượng nưóc thực sự sử dụng và lượng nước được cung cấp. Hệ số này phản ánh tình hình mất nước trong qúa trình sủ dụng. Trong một hệ thống tưới ruộng thì hệ số này cho thấy tình hình mất nước từ nguồn tới ruộng như tổn thất do ngấm, bốc hơi, rò rỉ qua các bờ kênh. Thường hệ số này từ 0.5 đến 0.8. Muốn tránh rò rĩ trên kinh tưới, nhiều nơi dùng giải pháp bê tông hoá hoặc plastic hoá các kinh.
 
Hệ số thấm là tốc độ thấm nưóc vào đất.
 
Hệ số tưới là lượng nước tưới cho một đơn vị diện tích cây trồng trong một đơn vị thời gian. Tính bằng l/sec/ha. Ví dụ trên lúa là 1 lit/sec/ha,  nhưng trên bắp thì chỉ 0.7 l/sec/ha
 
Hệ số nhám. Trong kinh dẫn nước có thể có thực vật phát triển, tăng độ gồ ghề của bề mặt, ảnh hưởng đến dòng chảy.
 
Mođun dòng chảy là lưu lượng nước sinh ra trung bình trên một đơn vị diện tích lưu vực trong một giâỵ.  Tính ra là lít/sec/km2.
 
Mođun dòng chảy năm lớn nhất đạt tới 70- 80lít/sec/km2 tại lưu vực sông Tả Trạch (sông Hương) và nhỏ nhất chỉ có 5-10 lít/sec/km2 tại lưu vực song Lủy Phan Thiết. Môđun dòng chảy đỉnh lũ có thể đạt 20-30 m3/sec/km2.
 
Dòng chảy bùn cát, còn gọi là dòng chảy rắn là lượng bùn cát do dòng nước vận chuyển trong lòng sông qua một mặt cắt nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định như ngày, tháng, năm.. Sông Hồng và sông Cửu Long có dòng chảy bùn cát nhiều phù sa lơ lửng rất lớn.
 
Kênh dẫn nước đưa nước từ công trình đầu mối (đập, hồ, nhánh sông v.v.) về phân phối cho hệ thống kênh điều tiết nước mặt ruộng, còn kênh tiêu (canal de drainage) dẫn nước thừa trên ruộng ra sông hoặc ra khu chứa nước tiêu.
 
Tưới nước có nhiều phương pháp:
 
Tưới ngập (submersion irrigation) tạo một lớp nước trên ruộng như trồng lúa. Đòi hỏi phải san bằng đất và đắp nhiều bờ để giữ nước.
 
Tưới rãnh (furrow irrigation) hoặc tưới thấm: đưa nước chảy theo rãnh để nước thấm vào đất theo chiều ngang, giữ được đất thông khí và xốp. Ứng dụng cho bắp đậu trồng theo hàng.
 
Tưới nhỏ giọt (drip irrigation): cung cấp nước từng giọt trực tiếp vào gốc cây. Nước tưới được lọc sạch cặn nếu không lỗ bị bít. Lưu lượng tưới rất nhỏ (thường chỉ vài lít trong một giờ) vừa đủ thấm vào đất.
 

Tưới phun (Sprinkler irrgation): dùng máy bơm hút nước và phun lên thành hạt nhỏ như mưa. Ưu điểm là không cần đắp bờ, san bằng đất khi tưới nhưng khuyết điểm là tăng bốc hơi, tăng ẩm độ không khí có thể tạo điều kiện cho bệnh thảo mộc và ngoài ra, thiết bị bơm đắt tiền.

6. Các vấn nạn những dòng sông

Dòng sông vốn là một tài nguyên qúy giá nhưng gặp các vấn nạn sau đây:
 
6.1 Lũ lụt.Vì các dòng sông miền Trung không dài, độ dốc núi non rất lớn, đồi núi trọc, không cây che phủ nên nước mưa, vốn tập trung vào vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt,  nhất là từ Thanh Hoá đến Quảng Nam. Rừng bị phá hại đã làm  các qúa trình địa mạo tiêu cực như xói mòn, rửa trôi, trượt lở đất xảy ra nhanh chóng.
 
6.2 Hạn hán. Cũng vì phá rừng nên lượng mưa chảy tràn trên mặt (runoff) nhiều hơn lượng nước mưa thấm vào đất. Gặp mùa nắng kéo dài hoặc khi mùa mưa kết thúc sớm,  lưu lượng trên sông giảm dần nên nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt.
 
6.3 Mặn hoá Do bùng nổ dân số, sinh đẻ búa xua không kiểm soát, các đồng bằng miền Trung có diện tích đất trồng trọt được càng ngày càng nhỏ nên phải tận dụng thâm canh vào mùa khô, do đó phải bơm nước tưới ruộng, làm nước nhiễm mặn càng xâm nhập sâu. Do bơm nước, mực nước hạ thấp, cường độ thấm nước từ các sông tăng lên, làm nước mặn ngoài biển lấn vào.Vào cuối mùa nắng, khi dòng chảy của sông ngòi nhỏ nhất thì độ mặn lên xa trên mọi dòng sông miền Trung, gây khó khăn cho dân chúng về nước uống cũng như về tưới hoa màu. Cũng có chỗ hệ thống đê ngăn mặn bị vỡ khiến nhiều ruộng bị mặn, không trồng trọt được.
 
6.4 Sạt lở bờ sông. Sự khai thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như cát, sỏi, vật liệu xây dựng trên các dòng sông để xây cất trong qúa trình đô thị hoá cũng như xây kè lấn ra bờ sông  làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay đổi cấu trúc/kết cấu/ địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở về lâu dài, như tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v.  khiến nhiều gia đình sống mấp mé bên các triền sông phải di dời hàng năm.
 
6.5 Bùn cát lơ lửng: nếu nhiều trong dòng nước thì  các hồ chứa bị bồi đầy nhanh chóng. Sự phá rừng trên thượng nguồn  làm bào mòn lưu vực và do đó,  lượng phù sa lắng đọng sẽ tăng cao lòng sông và làm giảm sự thoát lũ. Sông Hương chảy qua thành phố Huế là một ví dụ điển hình: bùn cát làm dòng sông đục ngàu, không còn xanh trong như xưa.
 
6.6 Thủy triều và sóng lớn. Các rừng ngập mặn bị phá để làm đìa nuôi tôm, nên các làng duyên hải càng bị gió ngoài khơi thổi mạnh, không có hàng rào thực vật thiên nhiên chống đỡ, nên triều cường và sóng lớn lấn sâu vào đất liền; nhiều đìa nuôi tôm, nhièu ao nuôi cá cuốn trôi ra biển. Triều cường làm nhiều vùng thấp bị ngập hư hại và làm các đê bao, đê ngăn mặn bị phá hủy. Khi thủy triều vào trong sông, độ mặn lan truyền, khuyếch tán. Dưới tác dụng của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông, đi về hướng thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc vào cường độ của dòng triều và lượng nước trên thượng lưu đổ về.
 
6.7 Ô nhiễm nước
 
Nếu xưa kia, nước quan trọng thì ngày nay, nước lại càng quan  trọng hơn. Lý do chính là do áp lực dân số, tạo nên nhu cầu  nước. Kỹ nghệ phát triển, đô thị phát triển, dân số phát triển kéo theo nhiều phế thải và nhiều ô nhiễm; nhưng vì mọi ô nhiễm dù là từ đất (bãi rác rò rĩ, thuốc sát trùng, phân bón ), dù là từ không khí (từ các khu kỹ nghệ, từ khói xe) nhưng cuối cùng rồi  cũng phải chảy về chỗ thấp, nghĩa là vào nước.Tóm lại, nước không những phải nhiều cho một dân số càng ngày càng tăng (Việt Nam nay đã 80 triệu dân) mà còn phải  sạch để bảo đảm sức khoẻ. Nước mà dơ bẩn thì vô hình gây ra một gánh nặng cho nền y tế. Đặc biệt, trên các dòng sông miền Trung, có nhiều vạn đò sống trên sông và  sử dụng trực tiếp nước sông nên  dịch bệnh là một ám ảnh thường xuyên.Thực vậy, phần lớn phân người từ các đô thị đi thẳng vào sông ngòi mà không được xử lý.
 
Mọi vấn nạn trên đều có tương quan với nhau. Mùa mưa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa ruộng vườn vì mưa lũ nhiều do rừng đầu nguồn bị phá; mùa nắng thì do bơm nước nhiều qúa sự luân lưu của dòng chảy (nước mặt và nước ngầm ) nên nước mặn  xâm nhập sâu vào nội địa. 
 
Muốn giải quyết các vấn nạn trên, sự quản trị đồng bộ của lưu vực đòi hỏi những biện pháp tổng hợp:
 
-trồng rừng ở đầu nguồn để chuyển một phần nước mặt thành nước ngầm nhằm hạn chế nưóc lũ dồn về hạ lưu qúa nhanh, kéo dài thời gian truyền lũ. Rừng cây giúp giảm tốc độ dòng chảy, giảm lượng nước chảy tràn bề mặt và lượng đất bị xói mòn.
 
Sự phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên rừng không loại trừ lẫn nhau; đúng hơn, chúng phụ thuộc và hỗ trợ cho nhau. Tài nguyên rừng bảo vệ tài nguyên nước và nhờ tài nguyên nước, mới có những đập thủy điện nhỏ trên các vùng núi non, giúp nông dân thôn bản có thể giải trí nhờ truyền hình, giúp xay lúa, chà gạo, giải phóng phụ nữ khỏi các việc nặng nhọc lam lũ.
 
 - Xây dựng các hồ chứa đầu nguồn để tích nước nhằm giảm mức độ của lũ. Các công trình giữ nước trên núi hay vùng gò đồi giúp  điều tiết lượng nước. Có thể nuôi cá trên các hồ được đào theo hệ thống hồ bậc thang có phun nước, nhận nước và xả nước. Trên các suối, xây đập,làm hệ thống nước chảy tự động từ suối vào vườn để tưới cây trồng.
 
- Xây dựng các đập tức là những công trình chắn ngang dòng chảy, ngăn nước hoặc tạo thành hồ chứa để điều tiết lưu lượng, bớt được lũ lụt ở hạ lưu vào mùa mưa, bổ sung nguồn nước vào mùa nắng để tưới ruộng, cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường đầm phá, tạo đầu nước phát thủy điện.
 
- Phân một phần lưu lượng lũ của sông chính vào sông nhánh 
 
Và lồng ghép vào chương trình trên phải là một chuơng trình điều hoà dân số,- chú trọng vào chất lượng hơn là số lượng dân-, cũng giúp cải thiện môi trường sống, vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa dân số và môi trường.
 

7 Bảo vệ các môi trường

7.1 Bảo vệ môi trường nước ngọt
 
Nước phế thải từ các nhà máy cũng như nước sinh hoạt đô thị cần được xử lý nghĩa là làm giảm bớt nồng độ các độc tố trước khi cho thoát ra kinh rạch vì nếu không sẽ nguy hiểm cho sự tồn vong nhiều loài cá, tôm cũng như nguy hiểm cho sức khỏe dân sống trên các vạn chài...
 
Cần lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất, phải được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông suối có tác động thẩm mỹ, thông thoáng, giúp con người tìm một chút thanh thản trong cuộc sống xô bồ của xã hội đô thị ngày nay.
 
7.2 Bảo vệ môi trường nước lợ
 
Môi trường nước lợ ở cửa sông biển, rất đa dạng về sinh cảnh vì có các rừng ngập mặn, các đầm lầy cỏ, các thảm cỏ nước, ‘bốn bề bát ngát mênh mông, triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau’. Ngoài rừng ngập mặn với  đước, sú, bần, vẹt, còn có đầm lầy. Đây là bãi sinh sản của các loài thủy sinh, là nơi chắn sóng, chắn bão, là nơi cung cấp nguồn lợi thủy hải sản  tôm cua, nhuyễn thể và cá.  v.v…Môi trường này là nơi  rất thích hợp cho sự quần tụ các loại cò: Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm (Chinh Phụ Ngâm), các loài chim nước di cư trú đông, từ miền lạnh đến như vịt trời, ngỗng trời v.v. 
 
Bảo vệ môi trường nước lợ cũng để phát triển du lịch sinh thái với quan sát đàn cò, xem vượn khỉ, chèo thuyền dọc kinh rạch chằng chịt, chưa nói đến bảo vệ nhiều nguồn gen, nguồn giống và nguồn lợi thủy sản; bảo vệ  các giải rừng sú vẹt có thể giảm bớt thiên tai, gió bão.
 
7. 3 Bảo vệ môi trường nước mặn
 
Bảo vệ môi trường biển có nghĩa là chỉ khai thác phần lời, cụ thể là phải đảm bảo cho các loài sinh vật có thể tiếp tục sinh sản và phát triển; bảo vệ  đàn tôm con ở gần bờ, các hệ sinh thái tự nhiên của tôm con nghĩa là các rừng ngập mặn, vịnh nhỏ, bãi rong, tảo, thiết lập các vùng bảo vệ tài nguyên sinh vật biển vì nhiều loài có nguy cơ bị tiêu diệt như rùa biển vì lấy thịt ăn và mai rùa làm mỹ phẩm.
 
Thực vậy, Liên Hiệp Quốc đã đặt năm 1998 có tên ‘Năm đại dương’ để cảnh báo việc bảo vệ môi trường và sinh vật biển.
Bảo vệ môi trường biển là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành du lịch trong nước và quốc tế vì những thế kỷ sau, tuổi thọ càng ngày càng cao, mức sống cao lên,  thì  du lịch tăng thêm và đó là khu vực Việt Nam cần phát triển các dịch vụ để tạo công việc cho những thế hệ trẻ cứ mỗi năm gia nhập vào thị trường nhân công. Bờ biển Việt Nam có nhiều bãi dài và đẹp, không thua gì Cancun, Puerto Vaillarta của Mexico nhưng thiếu đầu tư, thiếu tổ chức, xây cất bừa bãi, nước cống các khách sạn đổ thẳng ra bờ biển nên gây thêm ô nhiễm. 
oOo 
 
Miền Trung, quê em nghèo, đất cày lên sỏi đá, nhưng có hai tài nguyên tái tạo được là rừng trên giãy Trường sơn chạy dài vừa chứa rừng, vừa chứa nước đều là năng lượng tái tạo, cọng thêm gió Lào thổi mạnh trong vài tháng đầu hè. Nước và rừng là hai nguồn năng lượng có thể tái tạo (renewable resource), thay vì than đá, dầu hoả là những nguồn năng lượng cạn kiệt dần với thời gian khai thác. Biết tái chế biến nước thải làm lại cho sạch trước khi trả lại cho sông, tăng diện tích rừng trên các lưu vực là yêu thiên nhiên. Trong Hội nghị Thượng Đỉnh  trái đất về phát triển bền vững ở Johannesburg Nam Phi tháng 9 năm 2002, các nhà lãnh đạo thế giới cũng kêu gọi các nước  tăng dần việc sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo. Nước và rừng như một cặp bài trùng, có cọng sinh, có tương quan nhân qủa, có tác động tuần hoàn.
 
Healthy cùng với wealthy một vần. Bổn phận của mỗi người sinh sống trên các giải đồng bằng miền Trung là phải làm thiên nhiên xinh đẹp hơn, trong sạch hơn. Như vậy, ta đã để lại cho các thế hệ tương lai một di chúc qúi báu, vì hệ sinh thái có vững mạnh, không ô nhiễm thì con người mới có sức khoẻ thể chất và tâm linh. Nói cách khác, phương trình hai vế sau đây phải được nghiệm đúng: Healthy ecosystems= Healthy people. Mà healthy (có sức khỏe) cũng dẫn tới wealthy (giàu), vì có sức khoẻ thì mới sản xuất ra của cải, dùng tiền tiết kiệm để đầu tư ra của cải, thay vì dùng để mua thuốc trị bệnh. 
 
Thái Công Tụng
 
Thư tịch sơ lược:
 
Asian Development Bank. Environments in Transition. Cambodia, Lao PDR, Thailand, Viet Nam. ADB 2000
Hà Mai Phương. Địa lý Việt Nam. Mai Hiên xb  1979
Lê Hữu Mục Văn hoá nuớc.Vietnamologica số 5 Trung Tâm Việt Nam Học Canada xb 2001
Nguyễn Dưọc và Trung Hải. Sổ tay địa danh Việt Nam. Nhà xb Giáo Dục  1999
Thái Công Tụng. The irrigated plains in North Nghệ An province.Vietnamologica number 4. Montreal 2000
Thái Công Tụng Land use in Thanh Hoá province, with special reference to the Bái Thượng dam irrigation rehabilitation project. Vietnamologica number 2. Montreal 1996
Thái Công Tụng. Natural environment and land use in South Viet Nam. Institute of Agricultural Research. Saigon 1972
Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Địa lý Việt Nam. Nhà xuất bản khoa Học Xã Hội Hà Nội 1990
Cùng Tác Giả / Đề Tài